Giảm giá!

Hoa hồi Bình Liêu

180,000 

Cây Hồi còn có tên là Mắc chác (tiếng Tày), hay Pit cóc (tiếng Dao), tên khoa học là Illicium verum Hook. f., thuộc họ Hồi (Illiciaceae). Quả của cây này được dùng làm thuốc gọi là Đại hồi, hay Bát giác hồi hương.

Mô tả

4/5 - (4 bình chọn)

Cây Hồi được trồng từ lâu đời ở vùng đông bắc Việt Nam, trong đó có một số vùng thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp tại Bình Liêu. Ngoài ra, cây Hồi còn phân bố ở các tỉnh miền nam Trung Quốc (chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây) và cũng được trồng ở một số nước Đông Nam Á như Lào, Indonesia, Philippin, với diện tích nhỏ và sản lượng không đáng kể.

Trên thế giới, chi Hồi (Illicium) có khoảg 40 loài, ở Việt Nam có 17 loài. Ngoài cây Hồi làm thuốc nói trên (I. verum), còn có nhiều loài Hồi dại mọc hoang dã, không dùng làm thuốc. Hồi là cây gỗ nhỡ, cao 6-10m, thân mọc thẳng đứng, cành non nhẵn, màu lục nhạt, sau chuyển sang màu nâu xám. Lá nguyên, mọc so le, phiến lá dày và cứng, hình trái xoan hẹp, dài 8-12cm, rộng 3-4cm, đầu lá nhọn. Hoa mọc đơn độc (hoặc 2-3 hoa) ở kẽ lá, cuống to và ngắn; 8 lá đài màu hồng ở mép, hơi xanh ở phía lưng, rụng ngay khi hoa nở. Tràng gồm 5-6 cánh hoa hình bầu dục, nhỏ hơn lá đài, màu hồng thẫm. Nhị 10-12, ngắn hơn cánh hoa, chỉ nhị rộng. Lá noãn rời. Quả thường có 8 đại rời nhau (nên có tên là ‘Bát giác hồi hương’) xếp toả tròn hình sao, đường kính 2,5-3cm, màu xanh lục; khi khô, mỗi đại tự mở theo mép lá noãn thành một khe nứt dọc, để lộ 1 hạt hình trứng nhẵn bóng, màu nâu đỏ. Mùa hoa: tháng 3-5, mùa quả: tháng 6-9.

Do các đại của quả Hồi rời nhau và xếp toả tròn như một bông hoa nên nhiều người gọi nhầm là “hoa hồi”.

Về hóa học: Cây Hồi chứa tinh dầu (tỷ lệ 8-10% trong quả khô). Thành phần chính của tinh dầu Hồi là trans-anethol (85-90%). Ngoài ra, còn có khoảng 25 hợp chất khác như limonen, α-pinen, β-phellandren, linalool, vv. Từ quả Hồi người ta đã chiết xuất được acid shikimic (7-10%),  để làm  nguyên  liệu tổng hợp  thuốc Tamiflu (Oseltamivir phosphat), một loại thuốc để phòng và chữa bệnh cúm gia cầm do virus H5N1 gây ra.

Về công dụng:  Theo Y học cổ truyền ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Ấn Độ thì Đại hồi có vị cay, ngọt, mùi thơm, tính ấm, vào kinh can, thận, tỳ, vị; có tác dụng trừ hàn, khai vị, kiện tỳ (kích thích tiêu hoá), tiêu thực, giảm co bóp dạ dày và ruột, lợi sữa, trừ phong, giảm đau, sát trùng. Thường dùng trị nôn mửa và tiêu chảy, bụng đầy trướng, trị chứng đái nhiều, đái dầm, tay chân nhức mỏi và ngộ độc thịt cá. Ngày dùng 4-8g dưới dạng thuốc hãm, thuốc sắc, hoặc thuốc bột. Quả Hồi cũng dùng để chế rượu khai vị, làm thơm thuốc đánh răng và gia vị, hoặc ngâm rượu làm thuốc xoa bóp. Tinh dầu Hồi có tác dụng kích thích tiêu hoá, chữa đau bụng, chống co giật, ức chế sự lên men ruột, gây trung tiện, long đờm và lợi tiểu nhẹ. Tinh dầu Hồi cũng là thành phần của thuốc ngậm chữa ho và thuốc xoa bóp chữa thấp khớp, chữa đau tai, sát khuẩn, trị bệnh nấm da và ghẻ. Lá Hồi dùng trị rắn cắn (nhai nuốt nước, lấy bã đắp). Hồi còn được dùng làm thuốc diệt rận, rệp cho gia súc.

Hàng năm, quả Hồi Bình Liêu được thu mua xuất khẩu sang Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều thị trường khác.

Video clip về hoa hồi ở Bình Liêu

BINHLIEU.TRAVEL

Bình luận

Thông tin bổ sung

Trọng lượng 1 kg